Kiểu gen là gì? Các nghiên cứu khoa học về Kiểu gen

Kiểu gen (genotype) là toàn bộ thông tin di truyền được mã hóa trong DNA, quyết định các đặc điểm sinh học của một sinh vật. Đây là cơ sở di truyền phân tử, khác với kiểu hình – vốn là các đặc điểm biểu hiện ra bên ngoài.

Kiểu gen là gì?

Trong sinh học và đặc biệt là di truyền học, kiểu gen (tiếng Anh: genotype) là tập hợp đầy đủ các thông tin di truyền của một sinh vật, được mã hóa trong các phân tử DNA. Mỗi tế bào chứa một bản sao kiểu gen (trừ một số ngoại lệ như tế bào sinh dục hoặc hồng cầu ở người). Kiểu gen quy định toàn bộ các đặc điểm sinh học – từ hình dáng, sinh lý, khả năng miễn dịch cho đến nguy cơ mắc các bệnh di truyền.

Hiểu một cách đơn giản, kiểu gen giống như bản thiết kế chi tiết được “viết” bằng ngôn ngữ DNA. Dù không thể quan sát trực tiếp kiểu gen bằng mắt thường, nhưng chúng ta có thể biết đến nó thông qua xét nghiệm gen hoặc nghiên cứu di truyền phân tử.

Cấu trúc và đơn vị của kiểu gen

Kiểu gen được tạo nên từ các nucleotide – các đơn vị hóa học cơ bản tạo nên DNA. Trình tự sắp xếp của các nucleotide quy định các đoạn gen. Mỗi gen có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, được gọi là alen (allele).

Ví dụ, gen quy định màu mắt có thể có alen cho mắt nâu và alen cho mắt xanh. Một người có thể có hai alen giống nhau (đồng hợp) hoặc hai alen khác nhau (dị hợp) cho cùng một gen. Sự kết hợp này chính là kiểu gen của người đó tại vị trí gen đó.

Phân biệt kiểu gen và kiểu hình

Một trong những nhầm lẫn phổ biến khi học về di truyền là giữa kiểu genkiểu hình. Trong khi kiểu gen là tổ hợp thông tin di truyền, thì kiểu hình là tập hợp các đặc điểm có thể quan sát hoặc đo lường được ở một sinh vật. Kiểu hình bao gồm hình thái cơ thể, hành vi, sinh lý và thậm chí là các đặc điểm phân tử.

Tuy nhiên, không phải lúc nào kiểu gen cũng được biểu hiện trực tiếp trong kiểu hình. Điều này là do:

  • Các gen có thể bị ức chế hoặc không hoạt động.
  • Một số tính trạng bị ảnh hưởng mạnh bởi yếu tố môi trường.
  • Có thể có sự tương tác phức tạp giữa nhiều gen.

Biểu diễn và ký hiệu kiểu gen

Trong di truyền học Mendel, kiểu gen được ký hiệu bằng các chữ cái. Chữ cái viết hoa thường đại diện cho alen trội, còn chữ cái viết thường đại diện cho alen lặn. Ví dụ:

  • AA: đồng hợp trội – biểu hiện tính trạng do alen trội quy định.
  • Aa: dị hợp – vẫn biểu hiện alen trội.
  • aa: đồng hợp lặn – chỉ khi có hai alen lặn thì tính trạng mới xuất hiện.

Sự biểu hiện của kiểu gen phụ thuộc vào quy luật trội – lặn, đồng trội, cộng gộp, hoặc tương tác đa gen.

Di truyền học Mendel và sơ đồ Punnett

Gregor Mendel là người đầu tiên phát hiện ra các quy luật di truyền thông qua thí nghiệm trên cây đậu Hà Lan. Ông đã mô tả cách các alen được phân ly và tổ hợp lại trong quá trình sinh sản hữu tính.

Để minh họa sự kết hợp các kiểu gen giữa bố mẹ, người ta sử dụng sơ đồ Punnett. Ví dụ, nếu cả bố và mẹ đều có kiểu gen Aa, các kiểu gen con có thể như sau:

P(AA)=14,P(Aa)=12,P(aa)=14P(AA) = \frac{1}{4}, \quad P(Aa) = \frac{1}{2}, \quad P(aa) = \frac{1}{4}

Điều này giúp dự đoán xác suất con mang một đặc điểm nào đó – đặc biệt hữu ích trong tư vấn di truyền.

Các dạng di truyền phức tạp

Không phải mọi tính trạng đều tuân theo di truyền đơn giản như Mendel mô tả. Có nhiều dạng di truyền phức tạp hơn:

  • Đồng trội: cả hai alen cùng biểu hiện, ví dụ nhóm máu AB.
  • Di truyền liên kết giới tính: gen nằm trên nhiễm sắc thể X hoặc Y.
  • Di truyền đa gen: nhiều gen cùng ảnh hưởng đến một tính trạng như chiều cao, trí thông minh.
  • Tác động của môi trường: chế độ dinh dưỡng, khí hậu, lối sống có thể làm thay đổi kiểu hình dù kiểu gen không đổi.

Vai trò của kiểu gen trong y học và công nghệ

Việc hiểu và xác định kiểu gen có vai trò ngày càng quan trọng trong:

1. Y học chính xác (Precision Medicine)

Thông qua xét nghiệm DNA, các bác sĩ có thể dự đoán nguy cơ mắc bệnh di truyền, phản ứng với thuốc, hoặc lựa chọn liệu pháp điều trị phù hợp với từng cá nhân. Ví dụ, kiểu gen ảnh hưởng đến khả năng chuyển hóa thuốc chống đông máu warfarin.

2. Chẩn đoán trước sinh

Các xét nghiệm sàng lọc di truyền giúp phát hiện các bệnh bẩm sinh (như hội chứng Down, Thalassemia) ngay từ trong thai kỳ.

3. Nông nghiệp và chọn giống

Kiểu gen giúp xác định đặc tính mong muốn trong cây trồng (chống sâu bệnh, năng suất cao) hoặc vật nuôi (sản lượng sữa, tốc độ tăng trưởng), từ đó cải thiện giống hiệu quả hơn.

Giải mã kiểu gen: kỹ thuật và công nghệ

Hiện nay, nhờ tiến bộ của genomics và công nghệ giải trình tự DNA, việc xác định kiểu gen đã trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Một số phương pháp tiêu biểu:

  • Giải trình tự Sanger: chính xác nhưng tốn thời gian, thích hợp với gen đơn lẻ.
  • Giải trình tự thế hệ mới (NGS): phân tích hàng triệu đoạn DNA cùng lúc, dùng trong nghiên cứu toàn bộ hệ gen (WGS) hoặc hệ gen mục tiêu (WES).
  • Microarray: dùng chip sinh học để phát hiện biến thể di truyền.

Xét nghiệm kiểu gen và các dịch vụ phổ biến

Các công ty như 23andMe, AncestryDNA hay MyHeritage cung cấp dịch vụ phân tích DNA cho mục đích cá nhân. Thông tin từ xét nghiệm bao gồm:

  • Gốc gác tổ tiên theo khu vực địa lý.
  • Đặc điểm thể chất, thói quen ăn uống, giấc ngủ.
  • Nguy cơ mắc các bệnh di truyền (như ung thư vú BRCA1/2).

Các ví dụ thực tế

Ví dụ, một người có kiểu gen CT tại gen ACTN3 (liên quan đến cơ bắp) có thể phù hợp với các môn thể thao sức bền hơn là tốc độ. Hay những người mang alen ε4 của gen APOE có nguy cơ cao mắc bệnh Alzheimer.

Kết luận

Kiểu gen là nền tảng sinh học quyết định đa dạng tính trạng và khả năng sinh lý của mỗi cá nhân. Việc hiểu và phân tích kiểu gen không chỉ mang lại kiến thức khoa học cơ bản mà còn mở ra cánh cửa cho những ứng dụng tiên tiến trong y học, nông nghiệp, và công nghệ sinh học.

Trong tương lai, với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn, kiểu gen sẽ đóng vai trò then chốt trong cá nhân hóa điều trị, nâng cao chất lượng sống và quản lý sức khỏe một cách chủ động.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kiểu gen":

microchecker: phần mềm nhận diện và sửa lỗi kiểu hình gen trong dữ liệu microsatellite Dịch bởi AI
Wiley - Tập 4 Số 3 - Trang 535-538 - 2004
Tóm tắtPhân hủy DNA, nồng độ DNA thấp và đột biến vị trí mồi có thể dẫn đến việc phân công sai kiểu hình gen microsatellite, gây sai lệch cho các phân tích di truyền học quần thể. microchecker là phần mềm dựa trên giao diện windows® để kiểm tra kiểu hình gen của microsatellite từ các quần thể lưỡng bội. Chương trình hỗ trợ nhận diện lỗi kiểu hình gen do các allele không khuếch đại (allele ẩn), hiện tượng ưu thế allele ngắn (rơi allele lớn), và việc ghi nhận các đỉnh kẻ. Chương trình cũng phát hiện lỗi đánh máy. microchecker ước tính tần số của allele ẩn và quan trọng hơn, có thể điều chỉnh tần số allele và kiểu hình gen của các allele đã được khuếch đại, cho phép sử dụng chúng trong các phân tích di truyền học quần thể tiếp theo. microchecker có thể được tải về miễn phí từ http://www.microchecker.hull.ac.uk/.
#Genotyping errors #Microsatellite data #DNA degradation #Population genetics #Null alleles #Large allele dropout #Stutter peaks #Microchecker #Genetic analysis tools
Sự quan sát lặp lại các kiểu phụ của khối u vú trong các tập dữ liệu biểu hiện gen độc lập Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 100 Số 14 - Trang 8418-8423 - 2003
Các mẫu biểu hiện gen đặc trưng được đo bằng vi mạch DNA đã được sử dụng để phân loại các khối u thành các nhóm phụ lâm sàng có liên quan. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tinh chỉnh các phân loại phụ đã được xác định trước đó của các khối u vú có thể được phân biệt bằng các mẫu biểu hiện gen khác biệt của chúng. Tổng cộng có 115 khối u vú ác tính đã được phân tích bằng phân cụm phân cấp dựa trên các mẫu biểu hiện của 534 gen "nội sinh" và được cho là chia thành một nhóm giống như cơ sở, một nhóm ERBB2 -tăng cường biểu hiện, hai nhóm giống như biểu mô, và một nhóm giống như mô vú bình thường. Các gen được sử dụng để phân loại được chọn dựa trên mức độ biểu hiện tương tự giữa các cặp mẫu liên tiếp được lấy từ cùng một khối u cách nhau 15 tuần điều trị neoadjuvant. Phân tích cụm tương tự của hai tập dữ liệu độc lập đã được công bố đại diện cho các nhóm bệnh nhân khác nhau từ các phòng thí nghiệm khác nhau, đã phát hiện ra một số kiểu phụ ung thư vú tương tự. Trong một tập dữ liệu bao gồm thông tin về thời gian phát triển của di căn xa, các kiểu phụ có liên quan đến sự khác biệt đáng kể trong đặc điểm lâm sàng này. Bằng cách bao gồm một nhóm các khối u từ những người mang BRCA1 trong phân tích, chúng tôi phát hiện ra rằng kiểu gen này có xu hướng gây ra kiểu phụ khối u cơ sở. Các kết quả của chúng tôi mạnh mẽ ủng hộ ý tưởng rằng nhiều kiểu phụ khối u vú này đại diện cho các thực thể bệnh lý sinh học khác biệt.
#khối u vú #phân loại phụ #biểu hiện gen #BRCA1 #di căn
Sự phát triển kiểu gen và hình thái học của ung thư phổi khi kháng thuốc ức chế EGFR Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 3 Số 75 - 2011
Các loại ung thư phổi trải qua những thay đổi di truyền và mô học động khi phát triển khả năng kháng lại các thuốc ức chế EGFR.
Định Typ Đa Điểm Gen Nội Để Phân Loại Các Dòng Kháng Methicillin và Không Kháng Methicillin của Staphylococcus aureus Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 38 Số 3 - Trang 1008-1015 - 2000
TÓM TẮTMột phương pháp phân loại gen nội qua nhiều điểm (MLST) đã được phát triển cho Staphylococcus aureus. Các trình tự của các đoạn gen nội nhà ở của bảy gen đã được lấy cho 155 phân lập S. aureus từ các bệnh nhân mắc các bệnh xâm lấn mắc phải cộng đồng và bệnh viện tại vùng Oxford, Vương quốc Anh. Năm mươi ba hồ sơ kiểu hình khác nhau đã được xác định, và 17 trong số này được đại diện bởi ít nhất hai phân lập. Phương pháp MLST có tính phân biệt cao và được xác nhận bằng cách chỉ ra rằng các cặp phân lập có hồ sơ kiểu hình giống nhau tạo ra các mẫu mảnh phân cách theo cách điện di trường xung nhịp rất tương tự. Các phân lập 22 có hồ sơ kiểu hình phổ biến nhất đều là các phân lập S. aureus kháng methicillin (MRSA) và có các hồ sơ kiểu hình giống hệt với một chủng tham khảo của dòng MRSA dịch bệnh 16 (EMRSA-16). Bốn phân lập MRSA có kiểu hình cũng giống như dòng MRSA dịch bệnh chính khác phổ biến trong các bệnh viện Anh (dòng EMRSA-15) cũng đã được xác định. Phần lớn các phân lập (81%) là các phân lập S. aureus không kháng methicillin (MSSA), và bảy dòng MSSA bao gồm năm hoặc nhiều hơn phân lập. Ba dòng MSSA bao gồm ít nhất năm phân lập từ các bệnh nhân mắc các bệnh xâm lấn mắc phải cộng đồng và có thể đại diện cho các dòng độc lực với khả năng gây bệnh tăng lên ở những cá nhân bình thường khỏe mạnh. Dòng MSSA phổ biến nhất (17 phân lập) có liên quan rất gần đến EMRSA-16, và sự thành công của dòng sau trong việc gây bệnh tại bệnh viện có thể do sự nổi lên từ một dòng MSSA độc lực đã là nguyên nhân chính của bệnh xâm lấn trong cả cộng đồng và bệnh viện. MLST cung cấp một phương pháp không mơ hồ để chỉ định các phân lập MRSA và MSSA vào các dòng đã biết hoặc chỉ định chúng như là các dòng mới qua Internet.
#Phân loại gen đa điểm #S. aureus #MRSA #MSSA #kiểu gen #EMRSA-16 #EMRSA-15 #phòng thí nghiệm #dịch bệnh
Tính không đồng nhất hình thái giữa các hóa kiểu lipopolysaccharide của Salmonella trong gel polyacrylamide bạc nhuộm Dịch bởi AI
Journal of Bacteriology - Tập 154 Số 1 - Trang 269-277 - 1983
Sự không đồng nhất hình thái của lipopolysaccharide (LPS) giữa các đột biến salmonella với các hóa kiểu LPS khác nhau đã được phân tích trong gel polyacrylamide bạc nhuộm. Sự khác biệt sinh hóa trong các hóa kiểu LPS đã được phản ánh qua các hồ sơ độc đáo của LPS tinh khiết. Hồ sơ LPS trong lysates tế bào toàn phần cũng độc đáo cho từng hóa kiểu. (Các lysates tế bào toàn phần được đánh giá bằng một phương pháp ưu tiên nhuộm bạc LPS và phân giải proteinase K của lysates tế bào toàn phần. Các hồ sơ LPS bạc nhuộm của lysates phân giải bởi proteinase K tương tự như LPS tinh khiết đồng dòng và có thể được sử dụng để xác định sơ bộ hóa kiểu LPS trước khi tinh chế.) Tóm lại, có thể phát hiện biến đổi sinh hóa trong thành phần LPS bằng gel polyacrylamide bạc nhuộm.
#Salmonella #lipopolysaccharides #hóa kiểu LPS #gel polyacrylamide bạc nhuộm #biến đổi sinh hóa
MaCH: Sử dụng dữ liệu chuỗi và kiểu gen để ước tính các haplotype và kiểu gen chưa quan sát Dịch bởi AI
Genetic Epidemiology - Tập 34 Số 8 - Trang 816-834 - 2010
Tóm tắtCác nghiên cứu liên kết toàn bộ hệ gen (GWAS) có thể xác định các alen phổ biến có đóng góp vào sự nhạy cảm với các bệnh phức tạp. Mặc dù số lượng lớn SNPs được đánh giá trong mỗi nghiên cứu, tác động của phần lớn các SNP phổ biến phải được đánh giá gián tiếp bằng cách sử dụng các dấu hiệu đã được genotyped hoặc các haplotype của chúng làm đại diện. Chúng tôi đã triển khai một khung Markov Chain hiệu quả về mặt tính toán cho việc ước tính kiểu gen và haplotyping trong gói phần mềm MaCH miễn phí có sẵn. Phương pháp tiếp cận này mô tả các nhiễm sắc thể mẫu như những hình khảm của nhau và sử dụng dữ liệu kiểu gen hiện có và chuỗi shotgun để ước tính các kiểu gen và haplotype chưa quan sát, cùng với các thước đo hữu ích về chất lượng của những ước tính này. Phương pháp của chúng tôi đã được sử dụng rộng rãi để tạo điều kiện so sánh kết quả giữa các nghiên cứu cũng như phân tích tổng hợp GWAS. Tại đây, chúng tôi sử dụng các mô phỏng và kiểu gen thực nghiệm để đánh giá độ chính xác và tính hữu ích của nó, xem xét các lựa chọn bảng genotyping, cấu hình bảng tham chiếu và các thiết kế genotyping được thay bằng chuỗi shotgun. Điều quan trọng, chúng tôi cho thấy ước tính kiểu gen không chỉ tạo điều kiện cho phân tích giữa các nghiên cứu mà còn tăng công suất của các nghiên cứu liên kết di truyền. Chúng tôi cho rằng việc ước tính kiểu gen các biến thể phổ biến bằng cách sử dụng haplotypes HapMap làm tham chiếu là rất chính xác khi sử dụng dữ liệu SNP toàn bộ hệ gen hoặc số lượng nhỏ dữ liệu điển hình trong các nghiên cứu phác thảo chi tiết hơn. Hơn nữa, chúng tôi cho thấy phương pháp này có thể áp dụng trong nhiều quần thể khác nhau. Cuối cùng, chúng tôi minh họa làm thế nào phân tích liên kết các biến thể chưa quan sát sẽ được hưởng lợi từ những tiến bộ hiện tại như các bảng tham chiếu HapMap lớn hơn và công nghệ chuỗi shotgun toàn bộ hệ gen. Genet. Epidemiol. 34: 816-834, 2010. © 2010 Wiley‐Liss, Inc.
#GWAS #kiểu gen #haplotype #HapMap #ước tính kiểu gen #genotyping #chuỗi shotgun #phân tích liên kết #SNP #mô phỏng #dịch tễ di truyền #phần mềm MaCH
Phát triển dần dần kiểu hình tế bào tạo xương ở chuột trong môi trường nuôi cấy: Mối quan hệ đối kháng trong việc biểu hiện các gen liên quan đến sự tăng sinh và phân hóa của tế bào tạo xương trong quá trình hình thành matrik ngoại bào của xương Dịch bởi AI
Journal of Cellular Physiology - Tập 143 Số 3 - Trang 420-430 - 1990
Tóm tắtMối quan hệ giữa sự tăng sinh tế bào và biểu hiện tạm thời của các gen đặc trưng cho một chuỗi phát triển liên quan đến sự phân hóa của tế bào xương đã được xem xét trong các văn hóa tế bào diploid nguyên phát của tế bào tạo xương lấy từ vỏ sọ thai nhi bằng cách sử dụng kết hợp hình ảnh tự phóng xạ, hóa sinh, hóa học mô và các thí nghiệm mRNA về sự tăng trưởng của tế bào tạo xương và các gen kiểu hình. Những thay đổi trong biểu hiện gen xác định một chuỗi phát triển có 1) ba giai đoạn chính: tăng sinh, sự trưởng thành của matrik ngoại bào và khoáng hóa; và 2) hai điểm kiểm soát mà tế bào có thể tiến triển nhưng không thể qua được mà không có dấu hiệu thêm: điểm đầu tiên là khi sự tăng sinh bị điều chỉnh giảm và biểu hiện gen liên quan đến sự trưởng thành của matrik ngoại bào được kích thích, và điểm thứ hai là khi xảy ra khoáng hóa. Ban đầu, các tế bào đang tăng sinh tích cực, biểu hiện các gen điều chỉnh chu kỳ tế bào và tăng trưởng tế bào, sản xuất một matrik ngoại bào loại fibronectin/collagen loại I. Một mối quan hệ đối kháng và kết hợp chức năng giữa sự suy giảm hoạt động tăng sinh và sự kích thích tiếp theo của các gen liên quan đến sự trưởng thành của matrik và khoáng hóa được hỗ trợ bởi 1) một chuỗi sự kiện tạm thời mà trong đó có sự biểu hiện tăng cường của phosphatase kiềm ngay sau giai đoạn tăng sinh, và sau đó là sự biểu hiện tăng của osteocalcin và osteopontin vào thời điểm bắt đầu khoáng hóa; 2) sự biểu hiện tăng của một tập hợp cụ thể các dấu hiệu kiểu hình tế bào tạo xương, bao gồm phosphatase kiềm và osteopontin, khi sự tăng sinh bị ức chế bởi hydroxyurea; và 3) mức độ biểu hiện của các dấu hiệu tế bào tạo xương tăng cường theo một chức năng của việc lắng đọng collagen được kích thích bởi acid ascorbic, gợi ý rằng matrik ngoại bào góp phần vào cả việc ngưng hoạt động tăng sinh và sự phát triển kiểu hình tế bào tạo xương.
Phân bố toàn cầu của các kiểu huyết thanh/kiểu gen rotavirus và ý nghĩa của nó đối với việc phát triển và triển khai vắc xin rotavirus hiệu quả Dịch bởi AI
Reviews in Medical Virology - Tập 15 Số 1 - Trang 29-56 - 2005
Tóm tắtVắc xin rotavirus an toàn và hiệu quả đang là nhu cầu cấp bách, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Cơ sở kiến thức quan trọng đối với phát triển và triển khai vắc xin là về dịch tễ học của các kiểu huyết thanh/kiểu gen G và P của rotavirus trên toàn thế giới. Phân bố theo thời gian và địa lý của các kiểu G và P rotavirus ở người được xem xét thông qua phân tích tổng cộng 45571 chủng được thu thập toàn cầu từ 124 nghiên cứu báo cáo từ 52 quốc gia trên năm châu lục, công bố trong giai đoạn 1989 đến 2004. Bốn kiểu G phổ biến (G1, G2, G3 và G4) kết hợp với P[8] hoặc P[4] chiếm hơn 88% tổng số chủng phân tích trên toàn thế giới. Ngoài ra, các virus kiểu huyết thanh G9 kết hợp với P[8] hoặc P[6] đã nổi lên là kiểu G quan trọng thứ tư trên toàn cầu với tần suất tương đối 4,1%. Khi phân phối toàn cầu các kiểu G và/hoặc P được chia thành năm lục địa/phân lục địa, nhiều đặc điểm đặc trưng đã nổi lên. Ví dụ, P[8]G1 chiếm hơn 70% các trường hợp nhiễm rotavirus ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Úc, nhưng chỉ khoảng 30% các trường hợp nhiễm ở Nam Mỹ và Châu Á, cùng với 23% ở Châu Phi. Ngoài ra, ở Châu Phi (i) tần suất tương đối của G8 cao ngang với G3 hoặc G4 thường gặp trên toàn cầu, (ii) P[6] chiếm gần một phần ba tổng số các kiểu P xác định được và (iii) 27% các trường hợp nhiễm bệnh liên quan đến các chủng rotavirus mang các kết hợp không bình thường như P[6]G8 hoặc P[4]G8. Hơn nữa, ở Nam Mỹ, virus G5 ít phổ biến dường như tăng mức độ quan trọng dịch tễ học trong số các trẻ em bị tiêu chảy. Những phát hiện như vậy đã (i) khẳng định tầm quan trọng của việc giám sát liên tục các chủng rotavirus một cách chủ động trong nhiều bối cảnh địa lý khác nhau và (ii) cung cấp các cân nhắc quan trọng cho phát triển và triển khai một vắc xin rotavirus hiệu quả (ví dụ, điều chỉnh kiểu P-G theo địa lý trong việc bào chế vắc xin đa giá thế hệ tiếp theo). Bản quyền © 2004 John Wiley & Sons, Ltd.
#rotavirus #vắc xin #dịch tễ học #phân bố địa lý #kiểu huyết thanh #kiểu gen #chủng virus #giám sát chủng virus.
Phân tích hệ phả thực vật của các chuỗi virus viêm gan E toàn cầu: sự đa dạng di truyền, các kiểu phân loại và bệnh truyền nhiễm động vật sang người Dịch bởi AI
Reviews in Medical Virology - Tập 16 Số 1 - Trang 5-36 - 2006
Tóm tắtCác chuỗi nucleotide từ tổng cộng 421 mẫu virus viêm gan E (HEV) đã được thu thập từ Genbank và phân tích. Về mặt hệ phả thực vật, HEV được phân loại thành bốn kiểu gen chính. Kiểu gen 1 được bảo tồn nhiều hơn và được phân thành năm kiểu phụ. Số lượng chuỗi kiểu gen 2 bị giới hạn nhưng có thể phân loại thành hai kiểu phụ. Các kiểu gen 3 và 4 cực kỳ đa dạng và có thể được chia thành mười và bảy kiểu phụ. Về địa lý, kiểu gen 1 được phân lập từ các quốc gia nhiệt đới và một số quốc gia cận nhiệt đới ở châu Á và châu Phi, trong khi kiểu gen 2 có nguồn gốc từ Mexico, Nigeria và Chad; kiểu gen 3 được xác định hầu như trên toàn cầu, bao gồm châu Á, châu Âu, châu Đại Dương, Bắc và Nam Mỹ. Ngược lại, kiểu gen 4 chỉ được tìm thấy ở châu Á. Có giả thuyết rằng kiểu gen 3 có nguồn gốc từ bán cầu Tây và đã được nhập khẩu vào một số quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, trong khi kiểu gen 4 có thể là bản địa và có khả năng được giới hạn ở châu Á. Các kiểu gen 3 và 4 không chỉ được xác định ở lợn mà còn ở các động vật hoang dã như lợn rừng và hươu. Hơn nữa, trong hầu hết các khu vực nơi các kiểu gen 3 và 4 được phân loại, các chuỗi từ cả người và động vật đều được bảo tồn cao, cho thấy chúng có nguồn gốc từ cùng một nguồn lây nhiễm. Dựa trên sự khác biệt nucleotide từ năm hệ phả thực vật, đề xuất rằng năm kiểu phụ, hai kiểu phụ, mười kiểu phụ và bảy kiểu phụ cho các kiểu gen HEV 1, 2, 3 và 4 được đặt tên là các kiểu phụ theo thứ tự chữ cái. Do đó, tổng cộng đã có 24 kiểu phụ (1a, 1b, 1c, 1d, 1e, 2a, 2b, 3a, 3b, 3c, 3d, 3e, 3f, 3g, 3h, 3i, 3j, 4a, 4b, 4c, 4d, 4e, 4f và 4g) được ghi nhận.
Phân bố kiểu gen HPV trong các tổn thương cổ tử cung mức độ thấp: So sánh theo vùng địa lý và với ung thư cổ tử cung Dịch bởi AI
Cancer Epidemiology Biomarkers and Prevention - Tập 14 Số 5 - Trang 1157-1164 - 2005
Tóm tắt Các tổn thương biểu mô vảy mức độ thấp (LSIL) liên quan đến một số kiểu gen virus HPV nhất định có thể tiến triển một cách ưu thế thành ung thư cổ tử cung. Việc phân loại kiểu gen HPV có thể cải thiện hiệu quả của các chương trình sàng lọc và giảm thiểu việc điều trị quá mức. Các trường hợp LSIL (n = 8.308) từ 55 nghiên cứu đã được công bố được đưa vào phân tích tổng hợp. Phân bố kiểu gen HPV được đánh giá theo vùng địa lý và so sánh với dữ liệu được công bố về ung thư biểu mô vảy cổ tử cung (SCC). Việc phát hiện HPV trong LSIL là 80% ở Bắc Mỹ nhưng dưới 70% ở những khu vực khác, có thể phản ánh khác biệt khu vực trong chẩn đoán LSIL. Trong số 5.910 LSIL dương tính với HPV, HPV16 là kiểu gen phổ biến nhất (26,3%) tiếp theo là HPV31 (11,5%), HPV51 (10,6%), và HPV53 (10,2%). Các LSIL dương tính với HPV từ châu Phi có khả năng nhiễm HPV16 thấp hơn gấp 2 lần so với các LSIL ở châu Âu, và các LSIL dương tính với HPV từ Bắc Mỹ có khả năng nhiễm HPV18 cao hơn so với các LSIL từ châu Âu hoặc Nam/Central America. Việc giải thích các kiểu gen hiếm hơn bị cản trở bởi sự biến động trong phương pháp thử nghiệm HPV. Các tỷ lệ phổ biến SCC/LSIL cho thấy HPV16 phổ biến gấp 2 lần và HPV18 phổ biến gấp 1.5 lần trong SCC so với LSIL dương tính với HPV, do đó có vẻ như chúng có khả năng tiên tiến hơn so với các kiểu gen nguy cơ cao khác (tỷ lệ phổ biến SCC/LSIL nằm trong khoảng 0,05 và 0,85). HPV53 và HPV66 cho thấy tỷ lệ SCC/LSIL lần lượt là 0,02 và 0,01. Sự phân bố kiểu gen HPV trong LSIL khác với ở ung thư cổ tử cung, nhấn mạnh tầm quan trọng của kiểu gen HPV trong nguy cơ tiến triển từ LSIL thành ác tính. Một số khác biệt khu vực trong sự quan trọng tương đối của các kiểu gen HPV trong LSIL đã được ghi nhận.
Tổng số: 294   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10